Thứ Tư, 22 tháng 7, 2015

BẢN ĐỒ CHỈ DÂN KIỂM SOÁT NỘI BỘ: BẢN ĐỒ SỐ 2


Là Kiểm soát nội bộ, nhiệm cụ của bạn là phải định vị tổ chức của bạn nằm ở đâu trên lộ trình quản lý của thế giới. Tổ chức bạn đang áp dụng mô hình: TQM, BPI, Six sigma, Lean, BPM hay Service Sciences?
Nếu chưa thể mường tượng được ra, vậy hãy đọc kỹ rồi phác họa ra "BẢN ĐỒ CHỈ DẪN" của bạn nhé!

BPM LÀ GÌ
Hãy tưởng tượng một ngày đẹp trời  bạn bước vào quán cà phê phong cách Ý và gọi một ly để bắt đầu ngày mới. Bạn có biết rằng những người phục vụ đã thực hiện khoảng 30 - 40 công đoạn trong quy trình  để bạn có một ly cà phê thơm phức trên tay. Các barista cần đun sôi nước, làm sạch các ống dẫn của cà phê máy, đun sữa đến nhiệt độ thích hợp, thêm đường, …vv À nếu như bạn có yêu cầu cao hơn một chút bao gồm kem và si-rô có mùi vị thì cũng phải mất thêm 20 công đoạn trong quy trình thực hiện nữa. Khó tin nhỉ?

Dù công việc là pha cà phê, chuẩn bị lái xe đi làm hay rửa bát vào buổi tối…bạn đã thực hiện một nhiệm vụ cụ thể. Dù vô tình hay cố ý, bạn đều làm theo một quy trình. Vì vậy bạn phải hiểu các nguyên tắc và kỹ thuật thực hiện quá trình đó. Nhưng câu hỏi đặt ra là làm thế nào quản lý nó một cách năng suất và hiệu quả?

Câu trả lời đơn giản là việc áp dụng BPM (Business Process Management - BPM)., đó là việc xây dựng, xác định, và quản lý quy trình để họ có thể được cải thiện cho hiệu quả tối đa
  • ·        Xác định tất cả các quá trình liên kết với tổ chức của bạn;
  • ·        Phân tích chúng cho năng suất và hiệu quả;
  • ·        Đo lường kết quả trong một khoảng thời gian;
  • ·        Tối ưu hóa các quá trình này.

BPM chỉ quan tâm đến liên tục cải tiến cách làm việc để làm cho quá trình ít tốn kém và hiệu quả hơn.
Quay trở lại ví dụ về cà phê: tại sao cần phải có barista đến tận nơi hỏi bạn uống gì mà sao bạn không đặt nó tại quầy? Chi tiết barista đưa tận tay cà phê cho bạn tại quầy là không cần thiết, tại sao bạn không ra quầy nhận lấy rồi tiện thể thanh toán luôn? Về cơ bản, đây là tất cả những gì gọi là Quản lý theo quá trình (Business Process Management - BPM).

Về học tập, BPM đã được định nghĩa trong một số cách. Có lẽ định nghĩa tốt nhất mà tôi đã xem qua là bởi Paul Harmon của Xu hướng quy trình kinh doanh (Paul Harmon of Business Process Trends). Ông xác định BPM như, "một kỷ luật quản lý tập trung vào việc cải thiện hiệu suất tổ chức bằng quản lý quy trình kinh doanh của công ty. " Ông nói rõ thêm rằng BPM là một phương pháp quản lý toàn diện mà nhằm mục đích sắp xếp quy trình kinh doanh với việc thay đổi nhu cầu kinh doanh bằng cách liên tục tập trung lạc quan lên chúng.

CON ĐƯỜNG DẪN TỚI BPM

Tại thời điểm cuốn sách này được viết không có sự đồng thuận dứt khoát về sự phát triển của BPM (Business Process Management) trong cộng đồng  như khi con người bắt đầu miêu tả quy trình và quản lý chúng. Tuy nhiên, có lập luận cho rằng người Ai Cập đã thông qua một số hình thức của hệ thống quy trình làm việc nguyên thủy đã được sử dụng cho mục đích xây dựng và kỹ thuật (các phương tiện công nhận nhất là sử dụng để xây dựng các kim tự tháp). Tuy nhiên, trong thời hiện đại hơn, chắc chắn cần tranh luận để khi quản lý theo quá trình trở thành một môn học chính thống.

Sau khi kết thúc Thế chiến II, nhiều người trong số các nước công nghiệp chuyển sang xây dựng lại sau khi nền kinh tế và nguồn lực của họ đã bị tàn phá bởi sự cần thiết để hỗ trợ cho chiến tranh. Những quốc gia này (đặc biệt là Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản, và Vương quốc Anh) tập trung vào sản xuất. Trong thời gian này, các tổ chức đã nhận thức rõ về việc thực hiện nhằm hợp lý hoá sản xuất và giảm chất thải.

Từ cuối năm 1950 đến đầu những năm 1960, các công ty sản xuất bắt đầu áp dụng nhiều phương tiện tiêu chuẩn để phân tích các quá trình trong các hình thức của thời gian và chuyển động. Về cơ bản, những nỗ lực tập trung vào thống kê đo lường được nhằm giảm tổng thời gian liên kết với một quy trình cụ thể. Trọng tâm của nhiều tổ chức cũng có xu hướng hướng tới đào tạo công nhân làm theo cụ thể, các bước lặp đi lặp lại mà đảm bảo chất lượng phù hợp của sản phẩm cũng như thời gian sản xuất ngắn hơn.

Từ năm 1970 trở đi các phương pháp quản lý quy trình và khuôn khổ phát triển liên tục thông qua đổi mới, chỉnh sửa, tăng cường tập trung vào khách hàng, và tăng trưởng kinh doanh. Tuy nhiên, với sự ra đời của máy tính và các công nghệ tự động trong những năm đầu 1970, tốc độ tiến hóa này đã trở thành nhanh chóng. Nhìn lại lịch sử này, bây giờ chúng ta thừa nhận rằng tiến hóa của BPM có thể được mô tả trong năm giai đoạn riêng biệt như thể hiện trong hình 2 bên dưới.


Quản lý chất lượng toàn diện (TQM) và “Just in Time” (JIT) công cụ khởi xướng giai đoạn đầu của quá trình quản lý. Trong thời gian cuối những năm 1940, người tiêu dùng ở Mỹ nhận thức rằng các sản phẩm của Nhật Bản có chất lượng kém và rẻ tiền. Các nhà lãnh đạo công nghiệp của Nhật Bản công nhận điều này như một vấn đề và sau đó mời các chuyên gia chất lượng, chẳng hạn như Edward Deming và Joseph Juran, để tìm hiểu làm thế nào để đạt được tổng số chất lượng trong một tổ chức sản xuất hàng loạt. Theo lời khuyên được cung cấp bởi các chuyên gia như Deming và Juran, TQM trở nên rộng rãi được thông qua bởi các công ty lớn của Nhật Bản trong những năm 1980 và 1990.

TQM là một kỷ luật (discipline)đã được sử dụng bởi các tổ chức để cung cấp cho khách hàng những sản phẩm và dịch vụ chính xác mà đáp ứng nhu cầu của họ. Các khía cạnh văn hóa với tổ chức, các yêu cầu chất lượng trong tất cả các giai đoạn của hoạt động của công ty, với quan điểm rằng các quá trình được thực hiện ngay trong lần đầu tiên và, do đó, các khuyết tật và dư thừa (waste eradicated) loại trừ khỏi hoạt động. Hai mục tiêu chính của TQM là cho một tổ chức để đạt được 100%  khách hàng hài lòng  và không có % khiếm khuyết.

Các công ty đã thực hiện TQM bao gồm Công ty Ford Motor, Phillips Semiconductor, Motorola, và các công ty ô tô Toyota. Những lợi ích các công ty này tuyên bố từ việc áp dụng TQM là:
• Hiệu quả quá trình dẫn đến lợi nhuận được cải thiện mỗi sản phẩm hay dịch vụ bằng cách loại bỏ các bước không cần thiết và lãng phí chi tiêu ở cấp độ hoạt động
• Xoá bỏ việc sửa chữa và làm lại
• Giảm chi phí hỗ trợ khách hàng và bảo hành.

JIT (Just in Time) là tiền thân của TQM, nhưng không được chấp nhận rộng rãi trong giai đoạn đầu tiên của quá trình tiến hóa của BPM. Nhiều tổ chức sản xuất Nhật Bản đã thông qua JIT-thực hành trong những năm 1970. JIT lần đầu tiên được phát triển và hoàn thiện bởi Toyota. Các yếu tố của JIT đảm bảo rằng nguyên liệu đến các cơ sở sản xuất chỉ khi họ đã thực sự cần thiết. Bằng cách tiết kiệm chi phí hàng tồn kho, các tổ chức đã có thể giảm chi phí đơn vị. Cuối cùng, khách hàng trả tiền ít hơn cho các chi phí của sản phẩm.

Giai đoạn thứ hai của quá trình quản lý (vẫn được sử dụng ngày nay) nổi lên trong thời gian cuối những năm 1980 khi tập trung chuyển từ khái niệm TQM để cải tiến quy trình kinh doanh (Business Process Improvement – BPI). Nhiều tổ chức đánh giá là có một nhu cầu quan trọng để quản lý các dữ liệu thống kê từ quy trình TQM. Thực hiện điều này buộc các tổ chức để bắt đầu đặt câu hỏi về lý do đằng sau sự cần thiết để hoàn thành một quá trình, như trái ngược với cách thực hiện nó một cách hiệu quả hơn. James Harrington, người đã viết nhiều cuốn sách về chủ đề này, được cho là người đi tiên phong trong khái niệm Cải tiến quy trình kinh doanh (BPI). Ông tiếp tục phát triển một số phương pháp về đo lường thời gian và điểm chuẩn.

Ngày hôm nay, các điều khoản Cải tiến quy trình kinh doanh (BPI) ít được sử dụng và đã được thay thế bằng thuật ngữ chung chung "BPM." Tiếp theo thời gian bạn đang ở một hội nghị hay hội thảo và ai đó nhắc đến quá trình cải tiến kinh doanh, bây giờ bạn sẽ biết rằng họ có khả năng nghiên cứu BPM trong cuối năm 1980 và đầu những năm 1990. Những cá nhân này cũng có thể nhận thức của hình trôn ốc lịch sử của kỷ luật (discipline).

Khái niệm Six Sigma tạo giai đoạn thứ ba của sự tiến hóa BPM. Bill Smith tại Motorola khái niệm hóa nó vào năm 1986, nhưng Six Sigma đã đạt được đà nhanh chóng trong những năm 1990 khi nó đã cho thấy sự thành công trong các tổ chức lớn như General Electric (GE) và Sony. GE bắt đầu chương trình Six Sigma của họ vào năm 1994 dưới sự lãnh đạo của Jack Welch. Trong thời hạn năm năm bắt đầu chương trình, GE báo cáo 2 tỷ USD tiết kiệm mà bắt nguồn trực tiếp từ các sáng kiến ​​Six Sigma.

Six Sigma là một tập các nỗ lực phát triển việc thực hiện để cải thiện các quy trình bằng phương pháp loại bỏ các khuyết tật. Một khiếm khuyết được định nghĩa là sự không phù hợp của một sản phẩm hoặc dịch vụ, và ; lỗi Six Sigma được định nghĩa là bất cứ điều gì ngoài đặc điểm kỹ thuật theo yêu cầu của khách hàng. Chìa khóa của đo lường Six Sigma là khiếm khuyết cho mỗi đơn vị (DPU) và lỗi trên một triệu cơ hội (DPMO). Quá trình hoạt động với Six Sigma, mức độ chất lượng sản xuất 3,4 lỗi trên mỗi (một) triệu cơ hội.

Các chương trình trước đó, chẳng hạn như TQM, sản xuất cải tiến thông qua chất lượng, nhưng không có tác động nhìn thấy trên thu nhập ròng của một tổ chức. Mục tiêu của Six Sigma không chỉ để đạt được mức Six Sigma chất lượng, mà còn để nâng cao lợi nhuận của tổ chức.

Triết lý tinh gọn (Lean) tăng tiếng tăm cùng với việc công khai Six Sigma, và tạo giai đoạn thứ tư của sự tiến hóa BPM. Nó được sử dụng rộng rãi vào giữa những năm 1990 bởi Toyota, Boeing, McDonalds, Intel, và Hewlett Packard. Sản xuất tinh gọn (Lean) là một triết lý quản lý quy trình chung có nguồn gốc chủ yếu từ hệ thống sản xuất Toyota. Lean sử dụng một tập hợp các công cụ hỗ trợ trong việc phát hiện (identification) và loại trừ đều đặn chất thải trong quy trình bằng cách sử dụng nỗ lực con người ít nhất, công cụ ít nhất là đầu tư vào các công cụ, và thời gian kỹ thuật ít nhất để phát triển một sản phẩm mới. Ví dụ về các công cụ được sử dụng trong sản xuất tinh gọn (Lean) là Sơ đồ chuỗi giá trị (Value Stream Mapping), 5S (5 Five), Kanban (hệ thống kéo) và Poka-Yoke (chống lỗi).


Khi chúng ta tiến xa hơn vào thế kỷ XXI, sự phát triển tiềm năng tiếp theo cho BPM là Khoa học Dịch vụ (Service Sciences). Kỷ luật này tán thành việc khả năng cho một tổ chức liên kết chính nó và các quá trình của nó chính xác đến kỳ vọng của khách hàng thay vì sản xuất quy định sẵn có của sản phẩm và dịch vụ. Khoa học Dịch vụ nhằm mục đích liên kết các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn của công ty đến mọi thành phần riêng lẻ của các doanh nghiệp, và nó đảm bảo rằng các doanh nghiệp có thể đáp ứng mong đợi của khách hàng mọi lúc bất kể những gì họ yêu cầu. Ví dụ, thay vì chỉ sản xuất xe hơi với số lượng nhiều, Khoa học Dịch vụ chủ trương rằng một chiếc xe sẽ không được xây dựng, trừ khi một khách hàng đã cụ thể ra lệnh cho nó, và nó đã được đặt hàng dựa trên thông số kỹ thuật chính xác của họ.

Lược dịch ngày 22/07/2015)
Ms Trần Thị Hạnh Mai
Trưởng Ban R&D, VICC
(Kiểm soát nội bộ, CFA)
  
Tìm kiếm thông tin ngày 27/06/2015:
Mr Nguyễn Tuấn Anh
Trưởng nhóm tìm kiếm (SRT, R&DD, VICC)
Cử nhân quản trị tài chính ( Đại học Western Kentucky, Mỹ)

Nguồn tham khảo: tác giả Theodore Panagacos

The ultimate guide to Business Process Management


---
Rất cám ơn Quý anh/chị đã đồng hành cùng VICC trên con đường cải tiến doanh nghiệp Việt
CÂU LẠC BỘ KIỂM SOÁT NỘI BỘ VICC
THE VICC INTERNAL CONTROL CLUB
Trụ sở: 72 Trương Công Định, P14, Q Tân Bình
Đăng ký tham gia sinh hoạt câu lạc bộ Kiểm Soát Nội Bộ Việt Nam (VICC) và tìm hiểu về thêm thông tin về câu lạc bộ vui lòng liên hệ:
THƯ KÝ CÂU LẠC BỘ
Thư điện tử               : viccthukysukien04@gmail.com

Cần biểu mẫu các loại qui trình hay tài liệu về kiểm soát nội bộ theo chuẩn quốc tế hoặc muốn hợp tác và trao đổi về chuyên môn KIỂM SOÁT NỘI BỘ xin liên lạc:
TRẦN THỊ HẠNH MAI
CHỦ TỊCH CÂU LẠC BỘ
Điện thoại: +84 938 699 246
Blog chia sẻ kinh nghiệm kiểm soát nội bộ: 
Blog chia sẻ kiến thức kiểm soát nội bộ:     
Blog chia sẻ kinh nghiệm kiểm soát nội bộ: 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét